QUÁN TƯỞNG
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.
Trước bảo toạ thân con ảnh hiện.
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
7
Đấng Pháp vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loài.
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.
Trước bảo toạ thân con ảnh hiện.
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta-bà giáo chủ Điều ngự Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Đương lai hạ sanh Di-lặc tôn Phật, Đại trí Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, Hộ pháp chư tôn Bồ-tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A-di-đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát, Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ-tát. (1 lạy)
Lư hương xạ nhiệt,
Pháp-giới mông huân.
Chư Phật hải hội tất diêu văn,
Tùy xứ kiết tường vân,
Thành ý phương ân,
Chư Phật hiện toàn thân.
NAM-MÔ HƯƠNG-VÂN-CÁI BỒ-TÁT. (3 lần)
Tu rị, tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị, ta-bà-ha. (7 lần)
Án ta phạ, bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (7 lần)
Nam-mô tam mãn đa một đà nẫm. Án, độ rô, độ rô địa vĩ, ta bà ha. (7 lần)
Án nga-nga nẵng, tam bà phạ, phiệt nhật ra hồng. (7 lần)
Phụng thỉnh Thanh Trừ Tai Kim Cang.
Phụng thỉnh Bích Độc Kim Cang.
Phụng thỉnh Huỳnh Tùy Cầu Kim Cang.
Phụng thỉnh Bạch Tịnh Thủy Kim Cang.
Phụng thỉnh Xích Thanh Hỏa Kim Cang.
Phụng thỉnh Định Trì Tai Kim Cang.
Phụng thỉnh Tử Hiền Kim Cang.
Phụng thỉnh Đại Thần Kim Cang.
Phụng thỉnh Kim Cang Quyến Bồ tát.
Phụng thỉnh Kim Cang Sách Bồ tát.
Phụng thỉnh Kim Cang Ái Bồ tát.
Phụng thỉnh Kim Cang Ngữ Bồ tát.
Khể thủ tam-giới Tôn,
Quy mạng thập-phương Phật.
Ngã kim phát hoằng nguyện:
Trì tụng Kim-Cang kinh.
Thượng báo tứ trọng ân,
Hạ tế tam đồ khổ.
Nhược hữu kiến văn giả,
Tất phát Bồ-đề tâm.
Tận thử nhứt báo thân,
Vãng sanh Cực Lạc quốc.
Vân hà đắc trường thọ,
Kim cang bất hoại thân
Phục dĩ hà nhân-duyên
Đắc đại kiên cố lực
Vân hà ư thử kinh
Cứu cánh đáo bỉ ngạn
Nguyện Phật khai vi mật
Quảng vị chúng sanh thuyết.
NAM-MÔ BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT. (3 lần)
Vô thượng thậm thâm vi-diệu pháp.
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như-Lai chân thật nghĩa.
NAM MÔ KIM CANG BÁT NHÃ HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT. (3 lần)
KINH KIM CANG
BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Cưu Ma La Thập - Việt dịch: Thích Trí-Tịnh
Ta nghe như vầy: Một thuở nọ, đức Phật ở trong vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc, tại nước Xá Vệ, cùng với chúng đại Tỳ kheo, một nghìn hai trăm năm mươi người câu hội.
Lúc đó, gần đến giờ ăn, đức Thế Tôn đắp y, cầm bát, vào thành lớn Xá Vệ mà khất thực.
Trong thành ấy, đức Phật theo thứ tự, ghé từng nhà, khất thực xong trở về Tịnh Xá, dùng cơm, rồi cất y bát, sau khi rửa chân xong, đức Phật trải tòa mà ngồi.
Bấy giờ, ông Trưởng Lão Tu Bồ Đề, ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bên vai hữu, gối bên hữu quỳ sát đất, cung kính chắp tay, mà bạch cùng đức Phật rằng:
"Hi hữu thay, đức Thế Tôn! Đức Như Lai khéo hay hộ niệm các vị Bồ tát, và khéo hay phó chúc cho các vị Bồ tát!
Bạch đức Thế Tôn! Trang thiện nam, người thiện nữ, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì phải trụ tâm như thế nào, nên hàng phục tâm mình như thế nào?"
Đức Phật dạy: "Hay thay! Hay thay! Nầy Tu Bồ Đề! Đúng như lời của ông vừa nói, đức Như Lai khéo hay hộ niệm các vị Bồ tát, và khéo hay phó chúc cho các vị Bồ tát.
"Nay ông nên lắng nghe, Ta sẽ vì ông mà nói. Trang thiện nam, người thiện nữ, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, phải trụ tâm như thế nầy, phải hàng phục tâm mình như thế nầy"...
"Vâng, bạch đức Thế Tôn! Con xin vui thích muốn nghe."
Đức Phật bảo ngài Tu Bồ Đề: "Các vị đại Bồ tát phải hàng phục tâm mình như thế này: bao nhiêu những loài chúng sanh, hoặc là loài noãn sanh, hoặc loài thai sanh, hoặc loài thấp sanh, hoặc loài hóa sanh, hoặc loài có hình sắc, hoặc loài không hình sắc, hoặc loài có tư tưởng, hoặc loài không tư tưởng, hoặc loài chẳng phải có tư tưởng, mà cũng chẳng phải không tư tưởng, thì Ta đều làm cho được diệt độ, và đưa tất cả vào nơi vô dư niết bàn. Diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh như thế, mà thật không có chúng sanh nào là kẻ được diệt độ cả. Tại sao vậy? Này, Tu Bồ Đề! Nếu vị Bồ tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thì chẳng phải là Bồ tát.
Tu Bồ Đề! Lại nữa, vị Bồ tát, đúng nơi pháp, phải nên không có chỗ trụ trước mà làm việc bố thí. Nghĩa là không trụ trước nơi hình sắc mà bố thí, không trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà bố thí.
Này, Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát phải nên bố thí như thế, chẳng trụ trước nơi tướng. Tại vì sao? Vì nếu vị Bồ tát, không trụ trước nơi tướng mà bố thí, thì phước đức nhiều không thể suy lường.
Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ sao? Có thể suy lường được cõi hư không ở phương đông chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn, không thể suy lường được."
"Tu Bồ Đề! Có thể suy lường được cõi hư không ở phương nam, tây, bắc, cõi hư không ở bốn hướng cạnh, và cõi hư không ở trên, dưới, chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Không thể suy lường được."
"Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát không trụ trước nơi tướng mà bố thí, thì phước đức cũng lại như thế, không thể suy lường được.
Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát chỉ phải nên đúng như lời Ta đã dạy đó mà trụ.
Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ sao? Có thể do nơi thân tướng mà thấy Như Lai chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Không thể do nơi thân tướng mà thấy được Như Lai. Bởi vì sao? Vì đức Như Lai nói thân tướng đó chính là chẳng phải thân tướng."
Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: " Phàm hễ có tướng đều là hư vọng cả! Nếu nhận thấy các tướng đều là không phải tướng, chính là thấy Như Lai".
Ông Tu Bồ Đề bạch cùng đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Như có chúng sanh nào được nghe những câu trong bài giảng giải như vậy, mà sanh lòng tin là thật chăng?"
Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Ông chớ nói lời ấy! Sau khi đức Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, có người trì giới, tu phước, có thể sanh lòng tin nơi những câu trong bài nầy mà cho đó là thật, thì phải biết rằng người ấy chẳng phải chỉ vun trồng căn lành từ nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật, mà người đó đã vun trồng căn lành từ nơi vô lượng nghìn muôn đức Phật rồi.
Như có ai nghe những câu trong bài nầy sanh lòng tin trong sạch nhẫn đến chừng trong khoảng một niệm. Tu Bồ Đề! Đức Như Lai đều thấy, đều biết, những chúng sanh đó đặng phước đức vô lượng dường ấy. Tại vì sao? Vì những chúng sanh đó không còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp, cũng không có tướng phi pháp. Tại vì sao? Vì những chúng sanh đó, nếu trong lòng chấp tướng, thì chính là chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.
Nếu chấp tướng pháp, thì chính là chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, và vì nếu chấp tướng phi pháp, thì cũng chính là chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, vì thế cho nên, chẳng nên chấp pháp, và cũng chẳng nên chấp phi pháp.
Cũng bởi nghĩa đó, Như Lai thường dạy rằng: "Nầy, các Tỳ kheo, các ông phải biết rằng, pháp của Ta nói ra đó, dụ cũng như thuyền bè, đến pháp còn phải xả bỏ, huống nữa là phi pháp!"
Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như Lai có chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Đức Như Lai có nói pháp chăng?"
Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Như con hiểu ý nghĩa của Phật nói, thì không có pháp nhứt định nào, gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có pháp nhứt định nào, mà đức Như Lai có thể nói được. Bởi vì sao? Vì pháp của đức Như Lai nói, đều không thể vin lấy, không thể nói được, chẳng phải pháp, chẳng phải "không phải pháp". Tại vì sao? Vì tất cả Hiền Thánh, đều do nơi pháp vô vi mà có từng bực khác nhau".
"Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Như có người đem bảy thứ báu, đầy cả cõi tam thiên, đại thiên, để làm việc bố thí, phước đức của người đó đặng, có nhiều hay chăng?"
Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn, rất nhiều! Tại làm sao? Vì phước đức đó, chính là không phải thật phước đức, cho nên đức Như Lai nói là phước đức nhiều".
"Còn như có người, nơi trong kinh nầy, nhẫn đến thọ trì một bài kệ bốn câu v.v... lại giảng nói cho người khác, thì phước đức nầy trội hơn phước đức trước. Bởi vì sao? Nầy Tu Bồ Đề! Tất cả các đức Phật, và pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của các đức Phật, đều từ kinh này mà có ra. Nầy Tu Bồ Đề! Phật pháp nói đó chính chẳng phải là Phật pháp.
"Tu Bồ Đề! Vị Tu Đà Hoàn có thể tự nghĩ là mình chứng được quả Tu Đà Hoàn chăng?"
Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn, không thể được! Bởi vì sao? Vì vị Tu Đà Hoàn, gọi là bực Nhập Lưu, và chính không nhập vào nơi đâu, chẳng vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đó gọi là Tu Đà Hoàn".
"Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Vị Tư Đà Hàm có thể tự nghĩ rằng mình được quả Tư Đà Hàm chăng?"
Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn không thể được! Bởi vì sao? Vì vị Tư Đà Hàm gọi là bực Nhất Vãng Lai, mà thật không có vãng lai, đó gọi là Tư Đà Hàm".
"Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Vị A Na Hàm có thể tự nghĩ rằng, mình được quả A Na Hàm chăng?"
Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn không thể được! Bởi vì sao? Vì vị A Na Hàm gọi là bực Bất Lai, mà thật không có tướng bất lai, cho nên gọi là A Na Hàm".
"Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Vị A La Hán có thể tự nghĩ rằng, mình chứng được quả vị A La Hán chăng?"
Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn không thể được! Bởi vì sao? Vì thật không có pháp chi gọi là A La Hán. Bạch đức Thế Tôn! Nếu như vị A La Hán nghĩ thế nầy: Ta chứng được quả vị A La Hán, thì chính là còn chấp trước tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.
Bạch đức Thế Tôn! Đức Phật dạy rằng con được môn "vô tránh tam muội", là bực nhứt trong mọi người, là bực A La Hán ly dục thứ nhứt.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu con tự nghĩ rằng mình được quả vị A La Hán, thì chắc đức Thế Tôn chẳng nói: Tu Bồ Đề là người ưa hạnh tịch tịnh. Bởi Tu Bồ Đề thật không khởi một niệm, mới gọi Tu Bồ Đề là ưa hạnh tịch tịnh".
Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Ý của ông nghĩ thế nào? Thuở xưa, hồi ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng, đức Như Lai có chứng đắc nơi pháp chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Không. Hồi ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng, nơi pháp, đức Như Lai thật không có chỗ chứng đắc."
"Này, Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Bồ tát có trang nghiêm Phật độ chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Không, tại vì sao? Vì trang nghiêm Phật độ đó, chính chẳng phải trang nghiêm, đó tạm gọi là trang nghiêm."
"Này, Tu Bồ Đề! Vì thế các vị đại Bồ tát, phải nên sanh tâm thanh tịnh như vầy: chẳng nên trụ trước nơi sắc mà sanh tâm, chẳng nên trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, và pháp, mà sanh tâm, nên "không chỗ trụ trước" mà sanh tâm thanh tịnh kia.
Này, Tu Bồ Đề! Ví như có người, thân như núi chúa Tu Di, ý của ông nghĩ thế nào? Thân của người đó, có lớn chăng?"
Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Rất lớn. Bởi vì sao? Vì đức Phật nói chẳng phải thân, đó mới gọi là thân lớn."
"Tu Bồ Đề! Như trong một sông Hằng có bao nhiêu số cát, lại có những sông Hằng nhiều như số cát đó. Ý của ông nghĩ thế nào? Số cát trong những sông Hằng đó, chừng có nhiều chăng?"
Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều. Nội những sông Hằng đã là nhiều vô số rồi, huống nữa là số cát trong sông!"
"Này, Tu Bồ Đề! Nay Ta nói thật mà bảo ông: Nếu có trang nam tử, thiện nữ nhơn nào đem bảy thứ báu đầy cả ngần ấy Hằng hà sa số cõi Tam thiên đại thiên để làm việc bố thí, người đó đặng phước có nhiều không?"
Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều."
Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Nơi trong kinh này, nếu có trang thiện nam, người thiện nữ nào, thọ trì nhẫn đến một bài kệ bốn câu v.v... và giảng nói cho người khác nghe, thì phước đức này hơn phước đức trước kia.
Này Tu Bồ Đề! Lại nữa, tùy chỗ nào giảng nói kinh nầy, nhẫn đến một bài kệ bốn câu v.v... phải biết chỗ đó, tất cả Trời, Người, A Tu La... trong đời, đều nên cúng dường như là tháp miếu thờ đức Phật. Huống nữa là, có người nào hay thọ trì, đọc tụng, trọn cả kinh nầy!
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết người ấy thành tựu pháp tối thượng, hy hữu bực nhứt.
Còn nếu kinh điển nầy ở tại chỗ nào, thì chỗ đó chính là có đức Phật, hoặc có hàng tôn trọng Đệ Tử của Phật."
Bấy giờ, ông Tu Bồ Đề bạch đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Tên gọi kinh nầy là gì? Chúng con phải phụng trì thế nào?"
Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề rằng: "Kinh nầy tên là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, ông nên theo danh tự ấy mà phụng trì.
Bởi vì sao? Nầy Tu Bồ Đề, đức Phật nói Bát nhã Ba la mật, chính chẳng phải Bát nhã ba la mật, đó gọi là Bát nhã Ba la mật.
Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như Lai có chỗ nào nói pháp chăng?"
Ông Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Đức Như Lai không có chỗ nào nói pháp".
"Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Bao nhiêu vi trần trong cõi tam thiên, đại thiên, thế là nhiều chăng?"
Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều".
"Nầy Tu Bồ Đề! Những vi trần ấy, đức Như Lai nói chẳng phải vi trần, đó tạm gọi là vi trần. Đức Như Lai nói thế giới cũng chẳng phải thế giới, chỉ tạm gọi là thế giới.
Nầy Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Có thể do ba mươi hai tướng mà thấy Như Lai chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Không. Chẳng có thể do ba mươi hai tướng mà thấy được Như Lai.
Bởi vì sao? Đức Như Lai nói ba mươi hai tướng chính chẳng phải tướng, đó chỉ tạm gọi tên là ba mươi hai tướng."
"Tu Bồ Đề! Như có trang thiện nam, người thiện nữ nào, đem thân mạng, bằng số cát sông Hằng ra bố thí. Nếu lại có người giữ theo trong kinh nầy, mà thọ trì nhẫn đến những bài kệ bốn câu v.v..., mà giảng nói cho người khác nghe, thì phước của người nầy nhiều hơn người trên."
Bấy giờ, ông Tu Bồ Đề nghe đức Phật nói kinh nầy, thì ông hiểu thấu nghĩa thú của kinh, nên ông buồn khóc, rơi lệ mà bạch với đức Phật rằng:
"Hi hữu thay, đức Thế Tôn! Đức Phật nói kinh điển rất sâu xa dường ấy, từ ngày trước khi đặng huệ nhãn đến nay, con chưa từng được nghe kinh điển như thế nầy.
"Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có người được nghe kinh nầy, mà có lòng tin thanh tịnh, thì chính là sanh thật tướng. Phải biết người ấy thành tựu công đức hi hữu bực nhất.
Bạch đức Thế Tôn! thật tướng đó chính chẳng phải tướng, cho nên đức Như Lai gọi là thật tướng.
Bạch đức Thế Tôn! Nay con được nghe kinh điển như thế nầy, con tin hiểu, thọ trì, chẳng đủ lấy làm khó.
Nếu khoảng năm trăm năm rốt sau ở đời tương lai, mà có chúng sanh nào đặng nghe kinh nầy, rồi tin hiểu thọ trì, thì người ấy chính là hi hữu bực nhứt.
Bởi vì sao? Người ấy không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng sanh, không có tướng thọ giả.
Vì sao thế? Vì tướng ngã chính là không phải tướng, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, chính là không phải tướng!
Bởi vì sao? Vì rời lìa tất cả tướng, chính đó gọi là chư Phật".
Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Đúng thế! Đúng thế! Lại như có người được nghe kinh nầy mà lòng không kinh hãi, không e sợ, không nhút nhát, thì phải biết, người đó rất là hi hữu. Bởi vì sao? Nầy Tu Bồ Đề! Đức Như Lai nói môn Ba la mật thứ nhất chính chẳng phải môn Ba la mật thứ nhất, đó tạm gọi là môn Ba la mật thứ nhất.
Tu Bồ Đề! Môn Nhẫn nhục Ba la mật, đức Như Lai nói đó chẳng phải Nhẫn nhục Ba la mật, mà tạm gọi là Nhẫn nhục Ba la mật.
Bởi vì sao? Nầy Tu Bồ Đề! Như Ta thuở xưa, bị vua Ca Lợi chặt đứt thân thể. Trong lúc đó, Ta không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng sanh, không có tướng thọ giả.
Vì sao vậy? Vì thuở xưa, trong lúc thân phận bị chặt rời rã đó, nếu Ta còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thì lẽ ra Ta khởi lòng hờn giận.
Nầy Tu Bồ Đề! Ta lại nhớ hồi thuở quá khứ, trong năm trăm đời, Ta làm vị Tiên nhẫn nhục. Trong bao nhiêu đời đó, Ta không tướng ngã, không tướng nhân, không tướng chúng sanh, không tướng thọ giả.
Tu Bồ Đề! Vì thế nên, Bồ tát phải rời lìa tất cả tướng, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chẳng nên trụ trước nơi sắc mà sanh tâm, chẳng nên trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà sanh tâm. Nên sanh tâm không trụ trước vào đâu cả.
Nếu như tâm còn có chỗ để trụ, thì chính là chẳng phải trụ, cho nên đức Phật nói, tâm của Bồ tát chẳng nên trụ trước nơi sắc mà bố thí.
Nầy Tu Bồ Đề! Bồ tát vì lợi ích cho tất cả chúng sanh, nên phải bố thí như thế. Đức Như Lai nói tất cả các tướng chính là không phải tướng, lại nói tất cả chúng sanh chính là chẳng phải chúng sanh.
Nầy Tu Bồ Đề! Đức Như Lai là bực nói lời chân chánh, lời chắc thật, lời đứng đắn, lời không phỉnh phờ, lời không sai khác.
Nầy Tu Bồ Đề! Pháp của đức Như Lai chứng đặng, pháp ấy, không thật, không hư.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu tâm của Bồ tát trụ trước nơi pháp mà làm việc bố thí, thì như người vào chỗ tối tăm, liền không thấy đặng chi cả.
Nếu tâm của Bồ tát, không trụ trước nơi pháp mà làm việc bố thí, thì như người có mắt sáng, lại có ánh sáng của mặt trời chiếu đến liền thấy các thứ hình sắc.
Nầy Tu Bồ Đề! Về đời đương lai, nếu có trang thiện nam, người thiện nữ nào, có thể thọ trì, đọc tụng kinh nầy, liền được đức Như Lai dùng trí huệ của Phật, đều biết rõ người ấy, đều thấy rõ người ấy, thảy đều được thành tựu công đức vô lượng, vô biên.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu có trang thiện nam, người thiện nữ nào, vào khoảng buổi sáng, đem thân mạng bằng số cát sông Hằng để bố thí, vào khoảng buổi trưa, lại đem thân mạng bằng số cát sông Hằng để bố thí, vào khoảng buổi chiều cũng đem thân mạng, bằng số cát sông Hằng để bố thí; trong vô lượng trăm nghìn muôn ức kiếp, đem thân mạng bố thí như thế.
Lại như có người nào, nghe kinh điển nầy mà sanh lòng tin không trái, thì phước của người nầy, hơn phước của người trước kia, huống chi là biên chép, thọ trì, đọc tụng, nói cho người khác nghe!
Nầy Tu Bồ Đề! Tóm tắt mà nói đó, thì kinh nầy có vô biên công đức không thể nghĩ bàn, không thể cân lường được.
Đức Như Lai vì người phát tâm đại thừa mà nói, vì người phát tâm tối thượng thừa mà nói.
Như có người nào, có thể thọ trì, đọc tụng, giảng nói rộng ra cho người khác nghe, thì đức Như Lai đều biết rõ người ấy, đều thấy rõ người ấy, thảy đều được thành tựu công đức không thể lường được, không thể cân được, không có ngằn mé, không thể nghĩ bàn được.
Những người như thế, chính là người gánh vác pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của đức Như Lai.
Bởi vì sao? Nầy Tu Bồ Đề! Vì nếu người nào ham ưa pháp tiểu thừa, chấp trước tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thì ở nơi kinh nầy, người ấy không thể nghe nhận, đọc tụng và giảng nói cho người khác nghe được.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu những nơi chỗ nào mà có kinh nầy, thì tất cả Trời, người, A Tu la..., trong đời đều nên cúng dường. Phải biết chỗ đó chính là tháp thờ đức Phật, đều phải cung kính lễ lạy, đi nhiễu quanh, đem các món hoa hương mà rải trên chỗ đó.
Lại nữa, nầy Tu Bồ Đề! Như có trang nam tử, thiện nữ nhân nào, thọ trì, đọc tụng, kinh nầy, lại bị người khinh tiện; thì những tội nghiệp đã gây ra trong đời trước, người ấy đáng lẽ sẽ phải đọa vào ác đạo, nhưng bởi trong đời nay, bị người khinh tiện, nên tội nghiệp đã gây ra trong đời trước đó, liền được tiêu diệt, người ấy sẽ đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nầy Tu Bồ Đề! Ta nhớ lại hồi thuở trước đức Phật Nhiên Đăng ra đời, vô lượng vô số kiếp về quá khứ, Ta gặp đặng tám trăm bốn nghìn muôn ức na do tha các đức Phật, lúc ấy Ta thảy đều hầu hạ, cúng dường, không có luống bỏ qua.
Về đời mạt thế sau nầy, nếu có người hay thọ trì, đọc tụng kinh nầy, thì công đức của những người ấy có được, nếu đem so sánh với công đức cúng dường các đức Phật của Ta trong thuở trước, thì công đức của Ta sánh không bằng một phần trăm, một phần nghìn, muôn, ức, cho đến tính đếm thí dụ đều chẳng bằng được.
Nầy Tu Bồ Đề! Về đời mạt thế sau nầy, nếu có trang thiện nam, người thiện nữ nào, thọ trì, đọc tụng, kinh nầy, công đức của những người đây đặng, nếu Ta nói đủ hết cả ra, hoặc có kẻ nghe đó, trong lòng liền cuồng loạn, nghi ngờ, không tin.
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết rằng, vì nghĩa lý của kinh nầy chẳng thể nghĩ bàn được, nên quả báo cũng không thể nghĩ bàn được!"
Bấy giờ, ông Tu Bồ Đề bạch với đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Trang thiện nam, người thiện nữ, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, phải trụ tâm như thế nào? Phải hàng phục tâm mình như thế nào?".
Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Trang thiện nam, người thiện nữ, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đó, thì phải sanh tâm như vầy: Ta phải diệt độ tất cả chúng sanh, diệt độ tất cả chúng sanh xong, mà không có một chúng sanh nào thật diệt độ.
Bởi vì sao? Nầy Tu Bồ Đề! Nếu Bồ tát mà còn có tướng ngã; tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì chính là chẳng phải Bồ tát.
Vì cớ sao? Nầy Tu Bồ Đề! Vì thật ra không có pháp chi phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cả?
Nầy Tu Bồ Đề, nơi ý của Ông nghĩ thế nào? – Ở nơi chỗ đức Phật Nhiên Đăng thì Như Lai có pháp chi mà được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Không, như chỗ con hiểu nghĩa lý của lời Phật dạy, thì ở nơi đức Phật Nhiên Đăng, Đức Thế Tôn đã không có pháp chi mà được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cả."
Đức Phật dạy rằng: "Đúng thế! Đúng thế! Nầy Tu Bồ Đề! thật không có pháp chi đức Như Lai đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu còn có pháp nào mà đức Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì đức Phật Nhiên Đăng bèn chẳng thọ ký cho Ta rằng: "Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni."
Bởi thật không có pháp chi để được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho nên đức Phật Nhiên Đăng đã thọ ký cho Ta, mà nói lời nầy:
"Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni." Bởi vì sao? Vì Như Lai đó chính là nghĩa các pháp như như.
Nếu có người nói rằng: Đức Như Lai được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Này Tu Bồ Đề! thật ra không có pháp chi mà đức Phật được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Này Tu Bồ Đề! Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của đức Như Lai chứng được, trong đó không thật, không hư, vì thế đức Như Lai nói, tất cả pháp đều là Phật pháp.
Này Tu Bồ Đề! Tất cả pháp mà đức Phật nói đó, chính chẳng phải tất cả pháp, cho nên gọi là tất cả pháp.
Này Tu Bồ Đề! Ví như thân người cao lớn."
Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Đức Như Lai nói thân người cao lớn, chính là chẳng phải thân cao lớn, đó tạm gọi là thân cao lớn".
"Nầy Tu Bồ Đề! Bồ tát cũng như thế. Nếu nói lời như vầy: Ta sẽ diệt độ vô lượng chúng sanh, thì vị đó không gọi là bực Bồ tát.
Bởi vì sao? Nầy Tu Bồ Đề! thật không có pháp chi gọi là Bồ tát.
Vì thế, Như Lai nói tất cả pháp, không ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu Bồ tát nói như thế nầy: Ta phải trang nghiêm Phật độ, thì vị ấy không gọi là bực Bồ tát.
Bởi vì sao? Vì Như Lai nói trang nghiêm Phật độ đó, chính chẳng phải trang nghiêm, đó tạm gọi là trang nghiêm.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu Bồ tát thông đạt được lý không ngã, không pháp đó, thì Như Lai gọi là thật phải bực Bồ tát.
Nầy Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như Lai có nhục nhãn chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Đúng thế, đức Như Lai có nhục nhãn."
"Nầy Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như Lai có thiên nhãn chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Đúng thế. Đức Như Lai có thiên nhãn."
"Nầy Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như Lai có huệ nhãn chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Đúng thế. Đức Như Lai có huệ nhãn."
"Nầy Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như Lai có pháp nhãn chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Đúng thế. Đức Như Lai có pháp nhãn."
"Nầy Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như Lai có Phật nhãn chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Đúng thế. Đức Như Lai có Phật nhãn."
"Nầy Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Như bao nhiêu cát trong sông Hằng, đức Phật có nói là cát chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Đúng thế, đức Như Lai nói là cát."
"Nầy Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Ví như có bao nhiêu cát trong một sông Hằng, thì cũng có số những sông Hằng, bằng số cát như thế, cõi Phật như bao nhiêu số cát trong những sông Hằng đó, như thế, cõi Phật có nhiều chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều!"
Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Bao nhiêu thứ tâm niệm của tất cả chúng sanh trong ngần ấy cõi nước, đức Như Lai đều biết rõ. Bởi vì sao? Vì đức Như Lai nói các thứ tâm đều là chẳng phải tâm, đó gọi là tâm. Vì cớ sao thế? Nầy Tu Bồ Đề! Tâm quá khứ chẳng thể đặng, tâm hiện tại chẳng thể đặng, tâm vị lai chẳng thể đặng.
Nầy Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Như có người đem bảy thứ báu, đầy cả cõi tam thiên đại thiên để dùng bố thí. Do nhơn duyên như thế, người ấy có được phước, có nhiều chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Đúng thế. Người đó, do nhân duyên ấy, được phước rất nhiều."
"Nầy Tu Bồ Đề! Nếu dùng phước đức là có, hữu vi, thì đức Như Lai chẳng nói là được phước đức nhiều. Do vì phước đức là không, vô vi, nên đức Như Lai mới nói là được phước đức nhiều."
"Nầy Tu Bồ Đề! Nơi ý ông nghĩ thế nào? Có thể do sắc thân cụ túc, mà thấy được đức Phật chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Không. Chẳng nên do sắc thân cụ túc mà thấy được đức Như Lai. Bởi vì sao? Vì đức Như Lai nói sắc thân cụ túc, chính chẳng phải sắc thân cụ túc, đó tạm gọi là sắc thân cụ túc."
"Nầy Tu Bồ Đề! Nơi ý ông nghĩ thế nào? Có thể do nơi các tướng cụ túc mà thấy được đức Như Lai chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Không. Chẳng nên do nơi các tướng cụ túc mà thấy được đức Như Lai. Bởi vì sao? Vì đức Như Lai nói các tướng cụ túc, nhưng chẳng phải cụ túc, đó tạm gọi là các tướng cụ túc."
"Nầy Tu Bồ Đề! Ông chớ nói rằng đức Như Lai nghĩ thế nầy: Ta nên có chỗ thuyết pháp, ông đừng nghĩ như thế. Bởi vì sao? Vì nếu người nào nói rằng: Đức Như Lai có thuyết pháp, thì là hủy báng đức Phật, không hiểu được nghĩa lý của Phật nói.
Nầy Tu Bồ Đề! Thuyết pháp đó chính thật không có pháp chi nói được, đó tạm gọi là thuyết pháp."
Bấy giờ, ông Huệ Mạng Tu Bồ Đề bạch đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Trong thì vị lai, chừng có chúng sanh nào nghe nói pháp nầy mà sanh lòng tin chăng?"
Đức Phật dạy rằng: "Nầy Tu Bồ Đề! Chúng sanh kia chẳng phải chúng sanh, cũng chẳng phải là không phải chúng sanh. Bởi vì sao? Nầy Tu Bồ Đề! Những chúng sanh, chúng sanh đó, đức Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, đó tạm gọi là chúng sanh".
Ông Tu Bồ Đề bạch với đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Đức Phật chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là không có chỗ chi là được sao?"
Đức Phật dạy rằng: "Đúng thế! Đúng thế! Nầy Tu Bồ Đề! Ta ở nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhẫn đến không có chút pháp chi có thể gọi là được đó mới gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".
Lại nữa, nầy Tu Bồ Đề! Pháp đó bình đẳng, không có cao, thấp, đó gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Do vì không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giả, mà tu tất cả pháp lành, liền được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nầy Tu Bồ Đề! Pháp lành đã nói đó đức Như Lai nói chính chẳng phải pháp lành đó tạm gọi là pháp lành.
Nầy Tu Bồ Đề! Như trong cõi tam thiên, đại thiên, có bao nhiêu núi chúa Tu Di, nếu có người góp cả bảy thứ báu lại, bằng những núi Tu Di đó, đem dùng mà bố thí.
Nơi kinh Bát Nhã Ba La Mật nầy nhẫn đến một bài kệ bốn câu v.v... nếu có người thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho kẻ khác nghe, thì phước đức của người bố thí trước, sánh không bằng một phần trăm, một phần nghìn, muôn ức, cho đến tính đếm thí dụ đều chẳng bằng được.
Nầy Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Các ông chớ cho rằng đức Như Lai nghĩ như vầy: Ta phải hóa độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề! Ông đừng nghĩ như thế. Bởi vì sao? Vì thật không có chúng sanh nào đức Như Lai độ cả. Nếu có chúng sanh mà đức Như Lai độ đó, thì đức Như Lai còn có tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.
Nầy Tu Bồ Đề! Đức Như Lai nói có ngã đó chính chẳng phải có ngã, mà kẻ phàm phu lại cho là có ngã.
Nầy Tu Bồ Đề! Phàm phu đó, đức Như Lai nói chính chẳng phải phàm phu, đó tạm gọi là phàm phu.
Nầy Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Có thể do nơi ba mươi hai tướng mà xem là đức Như Lai chăng?"
Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Đúng thế! Đúng thế! Do nơi ba mươi hai tướng mà xem là đức Như Lai".
Đức Phật dạy rằng: "Nầy Tu Bồ Đề! Nếu do nơi ba mươi hai tướng mà xem là đức Như Lai đó, thì vua Chuyển Luân Thánh Vương chính là đức Như Lai rồi!"
Ông Tu Bồ Đề bạch với đức Phật rằng "Bạch đức Thế Tôn! Theo như con hiểu nghĩa lý của đức Phật nói, thì chẳng nên do nơi ba mươi hai tướng mà xem là đức Như Lai". Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Nếu dùng sắc
thấy ta,
Dùng tiếng tăm cầu
ta,
Người ấy tu đạo
tà!
Chẳng thấy được
Như Lai.
Tu Bồ Đề! Nếu ông nghĩ thế nầy: Đức Như Lai, không phải vì có tướng cụ túc mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác!
Này Tu Bồ Đề! Ông cũng đừng nghĩ như vầy: Đức Như Lai vì chẳng do nơi tướng cụ túc mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác sao
Này Tu Bồ Đề! Nếu ông nghĩ như vầy: Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nói các pháp đều đoạn diệt. Ông đừng nghĩ như thế. Bởi vì sao? Vì nơi các pháp, người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không nói tướng đoạn diệt.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu Bồ tát đem bảy thứ báu đầy cả những cõi nước bằng số cát sông Hằng để làm việc bố thí.
Nếu lại có người biết lý vô ngã của tất cả pháp mà đặng thành nhẫn trí. Vị Bồ tát nầy được công đức hơn phước đức của vị Bồ tát trước. Bởi vì sao? Nầy Tu Bồ Đề! Vì các vị Bồ tát không nhận lấy phước đức."
Ông Tu Bồ Đề bạch với đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Tại sao các vị Bồ tát không nhận lấy phước đức?"
"Nầy Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát phàm có làm việc phước đức thì chẳng nên tham trước, vì thế nên nói là chẳng nhận lấy phước đức.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu có người nói: Đức Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc nằm, thì người ấy không hiểu nghĩa của Phật nói. Bởi vì sao? Vì Như Lai đó, không từ nơi nào lại, mà cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai!
Nầy Tu Bồ Đề! Như có trang thiện nam, người thiện nữ, đem cõi tam thiên đại thiên đập nát ra vi trần. Nơi ý ông nghĩ thế nào? Các vi trần đó có nhiều chăng?"
Ông Tu Bồ Đề bạch rằng "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều. Bởi vì sao? Vì nếu những vi trần đó là thật có, thì đức Phật chẳng nói là những vi trần.
Vì cớ sao thế? Vì đức Phật nói những vi trần chính chẳng phải những vi trần, đó tạm gọi là những vi trần.
Bạch đức Thế tôn! Cõi tam thiên, đại thiên của đức Như Lai nói, chính chẳng phải thế giới, đó gọi là thế giới. Bởi vì sao? Vì nếu thế giới là thật có ấy, thì là một hiệp tướng.
Đức Như Lai nói một hiệp tướng chính chẳng phải một hiệp tướng, đó tạm gọi là một hiệp tướng".
"Nầy Tu Bồ Đề! Một hiệp tướng đó bèn là chẳng thể nói được, chỉ nơi kẻ phàm phu tham trước việc ấy thôi.
Nầy Tu Bồ Đề! Như có người nói: Đức Phật nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Người ấy hiểu nghĩa lý của Phật nói chăng?"
"Bạch đức Thế Tôn! Không. Người ấy không hiểu nghĩa lý của đức Phật nói. Bởi vì sao? Đức Thế tôn nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, chính chẳng phải ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, đó tạm gọi là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến".
"Nầy Tu Bồ Đề! Nơi tất cả pháp, người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác phải biết như thế, thấy như thế, tin hiểu như thế, chẳng sanh pháp tướng.
Nầy Tu Bồ Đề! Pháp tướng nói ra đó, đức Như Lai nói chính là không phải pháp tướng, đó tạm gọi là pháp tướng.
Nầy Tu Bồ Đề! Như có người đem bảy thứ báu đầy cả vô lượng vô số cõi nước để làm việc bố thí. Như có trang thiện nam, người thiện nữ nào, phát tâm Bồ đề, thọ trì kinh nầy, nhẫn đến một bài kệ bốn câu v.v... tự mình thọ trì, đọc tụng, lại giảng cho kẻ khác nghe, thì phước đức của người nầy hơn người trước.
Giảng nói cho người khác nghe như thế nào? : – " Không chấp lấy nơi tướng, như như chẳng động?"
Bởi vì sao?
Tất cả những
pháp hữu vi
Khác nào mộng,
huyễn, khác gì điện, sương.
Như bóng nước, như
ảnh tượng.
Xét suy như thế
cho thường chớ quên!
Đức Phật nói kinh nầy xong, ông Trưởng Lão Tu Bồ Đề cùng với các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, tất cả Trời, Người, A Tu La v.v... trong thế gian, nghe những lời của Đức Phật dạy, thảy đều rất vui mừng, tin nhận, vâng theo tu hành.
NAM MÔ BÁT NHÃ HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT. (3 lần)
Án, hô-rô, hô-rô, xả-duệ, mục-khế, tá-ha. (7 lần)
Án, Ta-ma-ra, Ta-ma-ra, Nhĩ-ma nẵng tát cót-ra – Ma-ha, chước-ca-ra hồng. (7 lần)
Nhứt hồi hướng:
Chân-như thật-tế tâm tâm khế hiệp.
Nhị hồi hướng:
Vô-thượng Phật-quả, bồ đề niệm-niệm viên mãn.
Tam hồi hướng:
Pháp-giới nhứt-thiết chúng-sanh đồng-sanh tịnh-độ.
Kim-cang công-đức,
Diệu-lý nan lương,
Như-Lai vị chúng quảng tuyên-dương.
Thọ thí ngộ chân-thường,
Dĩ chư hoa hương.
Phổ tán Pháp-Trung Vương.
Nam mô Kỳ viên Hội Thượng Phật Bồ tát Ma-ha-tát. (3 lần)
Quán Tự Tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-lợi-tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc.
Thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá-lợi-tử! Thị chư pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thật, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết-bàn.
Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhất thiết khổ, chơn thật bất hư.Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật đa (3 lần).
Nam mô a di đa bà dạ. Đa tha dà đa dạ. Đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tỳ ca lan đế, a di rị đa, tỳ ca lan đa. Dà di nị, dà dà na. Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật đa (3 lần).
Di-đà thân Phật sắc vàng tươi,
Tướng tốt quang minh vẹn đủ mười.
Ánh sáng toả hình năm núi lớn,
Mắt trong tợ nước bốn nguồn khơi.
Hào quang hoá Phật bao nhiêu ức,
Bồ-tát hiện thân gấp mấy mươi.
Bốn tám lời nguyện mong độ chúng,
Hoa sen chín phẩm rước lên ngôi.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A-di-đà Phật.
Nam mô A-di-đà Phật. (108 lần)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát. (3 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ-tát. (3 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ-tát. (3 lần)
Mười phương chư Phật ba đời
Di Đà bậc nhất chẳng rời quần sanh
Sen vàng chín phẩm sẵn dành
Oai linh đức cả đã dành vô biên
Nay con dâng tấm lòng thiền
Quy y với Phật sám liền tội căn
Phước lành con có chi chăng
Ít nhiều con cũng quyết rằng về Tây
Nguyện cùng với bạn tu đây
Tuỳ thời cảm ứng hiện ngay điềm lành
Biết giờ biết khắc rõ rành
Lâm chung tận mặt cảnh lành Tây phương
Thấy nghe chánh niệm chơn thường
Vãng sanh Lạc quốc đồng nương sen vàng
Hoa nở thấy Phật rõ ràng
Thoát vòng sanh tử độ an muôn loài
Phiền não vô biên thệ dứt trừ
Pháp môn tu học chẳng còn dư
Chúng sanh nguyện độ bờ kia đến
Phật đạo cùng nhau chứng trí như
Hư không cõi nọ dầu cùng
Nguyện trên còn mãi chẳng cùng chẳng thiên
Không tình cùng có đồng nguyền
Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành!
Nam mô Phật-đà-da
Nam mô Đạt-ma-da
Nam mô Tăng-dà-da
Án, tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha. (7 lần)
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sinh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo
Nguyện sinh Tây Phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ Vô sinh
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sinh
Giai cộng thành Phật đạo
Tự Quy y Phật, Đương nguyện chúng sanh, Thể giải đại đạo, Phát Vô thượng tâm (1 lạy).
Tự Quy y Pháp, Đương nguyện chúng sanh , Thâm nhập kinh tạng, Trí tuệ như hải (1 lạy).
Tự Quy y Tăng, Đương nguyện chúng sanh, Thống lý đại chúng, Nhất thiết vô ngại (1 lạy).
A Di Đà Phật thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh, diện phụng Di Đà, giữ chư thánh chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã. Nhứt sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ Tát đạo, quảng độ chúng sanh đồng thành chủng trí.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, Đại Từ, Đại Bi, A Di Đà Phật (1 lạy)
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (1 lạy)
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát, Nhất Thiết Hiền Thánh Chúng, Chư Thượng Thiện Nhân (1 lạy).